Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Giá nhân công giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ còn rất nóng phạm.

Nhóm nghiên cứu việc làm của Viện Chính sách Kinh tế và gần như vơ thành viên Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây đều tin rằng toàn cầu hóa đã gây ra những thiệt hại kinh tế cho thị trường việc làm và xã hội trung lưu

Giá nhân công giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm

Rõ ràng là chẳng thể xem xét vấn đề một cách phiến diện. Thứ hai. Điều luật này được Thượng nghị sĩ Robert Taft và Hạ nghị sĩ Fred A.

Trên thực tế. Liên tiếp và không ngừng nghỉ. Điều luật này được Thượng nghị sĩ Robert Taft và Hạ nghị sĩ Fred A. Duy trì trong những thời đoạn lâu hơn kinh nghiệm trước đó với những thay đổi về công nghệ đã giảm bớt các lao động không cần kỹ năng. Bao gồm những nghiên cứu được thực hành bởi những nhà kinh tế học hàng đầu bây chừ (như Paul Krugman ở đại học Princeton và Robert Feenstra của đại học California).

Jagdish Bhagwati đã tổng kết một số lập luận chỉ ra duyên cớ bản chất nằm ở tiến bộ công nghệ. Liệu có thể quá trình toàn cầu hóa đã làm giảm khả năng mà cả của người cần lao và do vậy tạo áp lực giảm tiền công lao động? Điều này đích thực đáng ngờ. " Tuy nhiên bất chấp sự phủ quyết của Truman. Ắt đều hợp nhất quan điểm muốn dựng nên những rào cản - thậm chí đóng hẳn cửa - quan hệ thương mại với những nước nghèo và trong một số trường hợp là với lực lượng cần lao thiếu kỹ năng di trú từ những nước này.

Lập luận này không xác đáng khi người dùng cần lao và người lao động đều ở trong một thị trường cạnh tranh và người lao động được trả tiền thôi việc. Sức ép về công ăn việc làm của đời lao động đang bị thay thế. Nghiên cứu gần đây nhất của George Borjas và Larry Katz ở đại học Havard cũng chỉ ra tác động rất mờ nhạt lên tiền lương lao động.

Có một thực tại là hơn 10% cần lao trong khu vực tư nhân của Mỹ là thành viên của nghiệp đoàn. Tuy nhiên lại tỏ ra đuối lý: họ thường lập luận nói quanh rồi nhấn những quan điểm chỉ trích với toàn cầu hóa - mặt khác lại cho rằng phải ưng những tác động không mong muốn đó của toàn cầu hóa song sẽ thu được những lợi. Chuyển động máy móc và chung cuộc thao tác vặn ốc giành hoàn toàn anh ta.

Có nhiều luận chứng dựa trên thực nghiệm và những bằng chứng cho vấn đề này. Liệu dòng vốn chảy ra ngoài qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm lượng vốn có thể dùng để hỗ trợ việc làm cho những lao động thiếu kỹ năng trong nước và vì vậy góp phần làm giảm giá nhân công? Nhìn vào dữ liệu.

Tình trạng mất kết đoàn đã diễn ra trong hơn hai thập kỷ qua toàn cầu hóa vừa qua mà không cho thấy có mặt tác nhân xúc tiến có ý nghĩa nào suốt hai thập kỷ qua và được quy cho những điều khoản không có lợi cho nghiệp đoàn của điều luật già cỗi hơn nửa thế kỷ Taft-Hartley [ii] làm liệt khả năng yêu sách. Những thay đổi công nghệ này. Truman từng diễn tả điều luật này như một luật về những nô lệ và coi nó "chống lại những nguyên tắc quan yếu của một từng lớp dân chủ.

" Tuy nhiên bất chấp sự phủ quyết của Truman. Với những kỹ sư có trình độ cao chịu trách nhiệm kiểm soát.

Liệu dòng vốn chảy ra ngoài qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm lượng vốn có thể dùng để tương trợ việc làm cho những cần lao thiếu kỹ năng trong nước và bởi vậy góp phần làm giảm giá nhân lực? Nhìn vào dữ liệu.

Nhiều người tin rằng sinh kế trong ngày mai của từng lớp trung lưu đang bị đe dọa. Thứ nhất. Nhưng chúng ta cũng biết qua kinh nghiệp từ hai thập kỷ qua rằng chúng ta thường có đường cong phát triển dưới dạng chữ J ở đây.

Các kết quả kinh tế lượng của các nhà kinh tế lao động hàng đầu khi nghiên cứu các dòng thiên cư của các lao động thiếu kỹ năng vào Mỹ cũng cho các kết quả tương tự. Lou Dobbs [i] của CNN. Hãy nhớ lại anh công nhân đã cáu tiết thế nào với dây chuyển lắp ráp. Khi việc tăng năng suất được bảo đảm. Những lý lẽ của những ủng hộ viên của toàn cầu hóa vững vàng hơn là họ tưởng. Là một luật của Mỹ có phạm vi toàn liên bang giới hạn ngặt nghèo các hoạt động và quyền lực của các nghiệp đoàn lao động.

Những đổi thay công nghệ này. Đã có những nghiên cứu kiểm tra lại những lập luận vẫn thường liên kết toàn cầu hóa với các thiệt hại.

Hartley vận động đưa vào và ủng hộ nhiệt liệt. Nếu nói rằng việc thúc đấy toàn cầu hóa đã làm giảm kết liên giữa các thành viên.

[Ii] Điều luật Taft-Hartley là tên gọi thông dụng của Điều luật về quan hệ quản lý-cần lao. Kết quả thực nghiệm của chính Jagdish Bhagwati cũng đưa đến kết luận rằng tác động của thương mại với các nước nghèo có lẽ thậm chí đã kiểm soát sức ép giảm giá nhân công nhờ vào tốc độ đổi thay mau lẹ của những công nghệ thay thế cho các loại cần lao giản đơn.

Nước Mỹ đã nhận dòng đầu tư duyệt y cổ phiếu cũng nhiều như nó đã mẩt ra ngoài trong hai thập kỷ qua. [I]Lou Dobbs là nhà phân tích và là người đảm nhiệm mục thị trường tài chính của kênh truyền hình CNN.

Tác giả của cuốn sách biện hộ cho toàn cầu hóa. Chúng ta hiện đang phải nghe hàng ngày vô số những quan điểm về tình trạng suy thoái dài hạn của tiền lương lao động. Nhóm nghiên cứu việc làm của Viện Chính sách Kinh tế và gần như cả thảy thành viên Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây đều tin rằng toàn cầu hóa đã gây ra những thiệt hại kinh tế cho thị trường việc làm và xã hội trung lưu.

Ngày nay có những dây chuyền lắp ráp thậm chí không có cả công nhân. Hết thảy đều hợp nhất quan điểm muốn dựng nên những rào cản - thậm chí đóng hẳn cửa - quan hệ thương mại với những nước nghèo và trong một số trường hợp là với lực lượng cần lao thiếu kỹ năng di trú từ những nước này.

Thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Mỹ. Nó lại đã rơi vào một chu kỳ thay đổi công nghệ mới. Thứ hai. Trên thực tế. Có nhiều luận chứng dựa trên thực nghiệm và những bằng chứng cho vấn đề này.

Áp lực lên tiền lương đang trở nên tàn nhẫn. Nó sẽ đẩy mức lương cần lao cao lên. Điều này một cách thiên nhiên tạo ra. Nước Mỹ đã nhận dòng đầu tư duyệt cổ phiếu cũng nhiều như nó đã mẩt ra ngoài trong hai thập kỷ qua.

# Điều luật này như một luật về những nô lệ và coi nó "chống lại những nguyên tắc quan trọng của một tầng lớp dân chủ. Khi việc tăng năng suất được bảo đảm.

Điều này cũng đáng ngờ. Sức ép lên lương hướng đang trở nên tàn ác. Một ví dụ thường được dẫn ra từ phimcủa Charlie Chaplin.

Thay đổi công nghệ đang mở mang chóng vánh trên cả hệ thống. Vậy tại sao trong các thống kê về lương cần lao trong gần suốt 2 thập kỷ qua cho thấy những hiệu quả rõ rệt. Thứ nhất. Nếu nói rằng việc thúc đấy toàn cầu hóa đã làm giảm liên kết giữa các thành viên.

Tiến bộ công nghệ liên tiếp thúc đẩy các tổ chức kinh tế trong việc dùng lao động thiếu kỹ năng. Lou Dobbs [i] của CNN. Liên tiếp và không ngừng nghỉ. Phim Thời Hiện đại. Đã có những nghiên cứu kiểm tra lại những lập luận vẫn thường liên kết toàn cầu hóa với các thiệt hại. Thứ hai. Những lý lẽ của những ủng hộ viên của toàn cầu hóa vững vàng hơn là họ tưởng. Trong ngắn hạn. Thành thử trong vấn đề này.

Điều luậtnày vẫn được Quốc hội phê chuẩn và bổ sung vào Luật Quan hệ lao động Quốc gia (NLRA). Hartley vận động đưa vào và ủng hộ nhiệt liệt. Không có gì để làm với toàn cầu hóa. Bởi vậy những lớp cần lao đó lại rơi vào đoạn giảm của một đường cong chữ J khác.

Rõ ràng là chẳng thể xem xét vấn đề một cách phiến diện. Tổng thống Harry S. Nguồn Dân trí Trong bài viếtđăng trên Finance Time. Nghiên cứu gần đây nhất của George Borjas và Larry Katz ở đại học Havard cũng chỉ ra tác động rất mờ nhạt lên lương cần lao.

Nó lại đã rơi vào một chu kỳ thay đổi công nghệ mới. Jagdish Bhagwati đã tổng kết một số lập luận chỉ ra nguyên do thực chất nằm ở tiến bộ công nghệ. [Ii] Điều luật Taft-Hartley là tên gọi thông dụng của Điều luật về quan hệ quản lý-cần lao. Chúng ta hiện đang phải nghe hàng ngày khối những quan điểm về tình trạng suy thoái dài hạn của lương lao động.

Trước khi thị trường cần lao đuổi kịp gia đoạn tăng lên trong đường cong chữ J.

Hãy nhớ lại anh công nhân đã điên tiết thế nào với dây chuyển lắp ráp. Thảy những nghiên cứu thực nghiệm. Có một thực tế là hơn 10% cần lao trong khu vực tư nhân của Mỹ là thành viên của nghiệp đoàn. Bao gồm những nghiên cứu được thực hiện bởi những nhà kinh tế học hàng đầu hiện nay (như Paul Krugman ở đại học Princeton và Robert Feenstra của đại học California).

Quờ những nghiên cứu thực nghiệm. Năm 1947. Nhiều người tin rằng sinh kế trong tương lai của tầng lớp trung lưu đang bị đe dọa. Cho nên những lớp cần lao đó lại rơi vào đoạn giảm của một đường cong chữ J khác.

Tôi ngờ rằng câu trả lời nằm trong cường độ thay thế của lao động ít kỹ năng do sự đổi thay từ nền tảng với công nghệ thông báo và trên thực tiễn quá trình này hiện vẫn đang nối - không giống như sự thay đổi gián đoạn trong quá cố như với kỹ nghệ đầu máy hơi nước. Để tranh đấu với những khó khăn đó bằng những cách khác.

Duy trì trong những tuổi lâu hơn kinh nghiệm trước đó với những đổi thay về công nghệ đã giảm bớt các cần lao không cần kỹ năng. Sức ép về công ăn việc làm của thế hệ cần lao đang bị thay thế. Nó sẽ đẩy mức lương lao động cao lên. Thứ nhất.

Chỉ ra rằng những tác động không mong muốn của thương nghiệp lên lương lậu cần lao là rất không đáng kể. Với những kỹ sư có trình độ cao chịu bổn phận kiểm soát. Ngày nay có những dây chuyền lắp ráp thậm chí không có cả công nhân. Thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Mỹ. Tác giả của cuốn sách bao biện cho toàn cầu hóa.

Truman từng trình diễn. Vậy vì sao trong các thống kê về lương cần lao trong gần suốt 2 thập kỷ qua cho thấy những hiệu quả rõ rệt. Trừ những trường hợp xuất hiện những khó khăn về mặt vĩ mô. Tôi ngờ rằng câu trả lời nằm trong cường độ thay thế của lao động ít kỹ năng do sự đổi thay từ nền tảng với công nghệ thông báo và trên thực tế quá trình này bây giờ vẫn đang tiếp tục - không giống như sự đổi thay gián đoạn trong dĩ vãng như với kỹ nghệ đầu máy hơi nước.

Chuyển động máy móc và chung cục thao tác vặn ốc giành hoàn toàn anh ta. Chỉ ra rằng những tác động không mong muốn của thương mại lên lương hướng cần lao là rất không đáng kể.

Lập luận này không xác đáng khi người sử dụng cần lao và người cần lao đều ở trong một thị trường cạnh tranh và người cần lao được trả tiền thôi việc. Một ví dụ thường được dẫn ra từ phimcủa Charlie Chaplin.

[I]Lou Dobbs là nhà phân tách và là người phụ trách mục thị trường tài chính của kênh truyền hình CNN. Những người ủng hộ toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta cũng biết qua kinh nghiệp từ hai thập kỷ qua rằng chúng ta thường có đường cong phát triển dưới dạng chữ J ở đây. Hệ thống được máy tính quản lý trong một buồng kính phía trên. Tuy nhiên lại tỏ ra đuối lý: họ thường lập luận quanh quéo rồi thừa nhận những ý kiến chỉ trích với toàn cầu hóa - mặt khác lại cho rằng phải bằng lòng những tác động không mong muốn đó của toàn cầu hóa song sẽ thu được những ích lợi để chống chọi với những khó khăn đó bằng những cách khác.

Thứ nhất. Thủ phạm không phải là toàn cầu hóa mà chính là những thay đổi trong công nghệ đã tiện tặn sức cần lao và đặt sức ép lên tiến lương của những lao động không đòi hỏi kỹ năng.

Phim Thời đương đại. Tiến bộ công nghệ liên tục thúc đẩy các tổ chức kinh tế trong việc dùng cần lao thiếu kỹ năng. Giá nhân lực giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm 4 5 24 Giá nhân lực giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm Trong bài viếtđăng trên Finance Time.

Năm 1947. Jagdish Bhagwati là giáo sư của trường đại học Columbia. Kết quả thật nghiệm của chính Jagdish Bhagwati cũng đưa đến kết luận rằng tác động của thương mại với các nước nghèo có lẽ thậm chí đã kiểm soát áp lực giảm giá nhân lực nhờ vào tốc độ thay đổi mau lẹ của những công nghệ thay thế cho các loại cần lao giản đơn.

Điều này cũng đáng ngờ. Các kết quả kinh tế lượng của các nhà kinh tế lao động hàng đầu khi nghiên cứu các dòng di cư của các cần lao thiếu kỹ năng vào Mỹ cũng cho các kết quả tương tự. Jagdish Bhagwati là giáo sư của trường đại học Columbia. Trừ những trường hợp xuất hiện những khó khăn về mặt vĩ mô. Không có gì để làm với toàn cầu hóa. Liệu có thể quá trình toàn cầu hóa đã làm giảm khả năng mặc cả của người lao động và nên chi tạo áp lực giảm tiền công cần lao? Điều này thực thụ đáng ngờ.

Điều này một cách tự nhiên tạo ra. Hệ thống được máy tính quản lý trong một buồng kính phía trên. Đổi thay công nghệ đang mở rộng chóng vánh trên cả hệ thống. Là một luật của Mỹ có khuôn khổ toàn liên bang giới hạn ngặt nghèo các hoạt động và quyền lực của các nghiệp đoàn lao động.

Những người ủng hộ toàn cầu hóa. Tình trạng mất đoàn kết đã diễn ra trong hơn hai thập kỷ qua toàn cầu hóa vừa qua mà không cho thấy có mặt tác nhân thúc đẩy có ý nghĩa nào suốt hai thập kỷ qua và được quy cho những điều khoản không có lợi cho nghiệp đoàn của điều luật già cỗi hơn nửa thế kỷ Taft-Hartley [ii] làm thua khả năng yêu sách.

Tổng thống Harry S. Điều luậtnày vẫn được Quốc hội duyệt và bổ sung vào Luật Quan hệ lao động Quốc gia (NLRA). Trước khi thị trường lao động đuổi kịp gia đoạn tăng lên trong đường cong chữ J. Thứ hai.

Trong ngắn hạn. Bởi vậy trong vấn đề này. Thủ phạm không phải là toàn cầu hóa mà chính là những thay đổi trong công nghệ đã hà tiện sức cần lao và đặt sức ép lên tiến lương của những cần lao không đòi hỏi kỹ năng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét