Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Luận bàn về sự cùng đọc lại công bằng.

Người dân phải được quyền biết và đóng góp ý kiến vào việc hình thành, cũng như giám sátviệc thực thi pháp luật. Muốn vậy, phải có cơ chế giải trình, rà soát, giám sát và đảm bảo minh bạch thông tin. Bình đẳng về thời cơ và khuyến khích sự cạnh tranh giữa các ý tưởng    xã hội nào cũng luôn tồn tại những nhóm người yếu thế, nhóm người dễ bị thương tổn.

Chẳng hạn trong việc xây dựng chính sách thuế: Những người có khả năng ngang nhau cần phải đóng một khoản thuế ngang nhau (công bằng theo chiều ngang), và những người có khả năng hay thu nhập không ngang nhau cần phải áp dụng những khoản thuế khác nhau (công bằng theo chiều dọc).

Chính sự cạnh tranh giữa các ý tưởng là bước khởi đầu, là cơ sở quan trọng để góp phần tạo nên sự công bằng xã hội. Worldbank. Trong tầng lớp đương đại ngày nay, để đảm bảo cho sự công bằng, cơ quan lập pháp có vai trò rất quan trọng.

Đó là sự công bằng; Hay qui định người nào làm nhiều sẽ được hưởng nhiều, người nào làm ít sẽ được hưởng ít, người có công được thưởng, người có tội phải bị trừng trị; người có công càng lớn thì mức thưởng càng lớn, người có tội càng nặng, mức phạt sẽ càng nặng.

Metzler, Stuttgart 1995, S. ” Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cũng qui định: “Mọi công dân đều đồng đẳng trước luật pháp”. (Xem báo cáo của nhà băng thế giới (World Bank) về sự công bằng và phát triển (Equity and Development) năm 2006 tại địa chỉ: http://econ.

6 Nguyên tắc này đóng vai trò như là nền móng của quốc gia pháp quyền hiện đại và là một nguyên tắc quan trọng của nhiều bản Hiến pháp dân chủ. Nguyên tắc đồng đẳng trước luật pháp bị vi phạm khi công quyền hành xử tùy tiện, đối bất công hơn đối vơímột nhóm người này so với một nhóm người khác, không dựa trên căn cứ pháp lý nào cả, dù rằng giữa hai nhóm này không có bất cứ một sự dị biệt nào về mặt địa vị pháp lý.

Những đối tượng này cần phải được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, công ăn việc làm, nguồn vốn, mạng lưới an sinh nhằm góp phần kiến tạo sự công bằng về điều kiện sống và công bằng về cơ hội phát triển trong xã hội 5.

Những đạo luật vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị tuyên bố vô hiệu. Thí dụ, những bác sĩ có cùng trình độ, cùng năm cống hiến phải được hưởng lương như nhau, nhưng chẳng thể đòi hỏi lương một người bác sĩ lâu năm đã bỏ bao công cần lao, học hỏi, phải ngang bằng với lương một người y tá mới ra trường.

Đó là công bằng. 349. , Dịp giữa các thành viên trong xã hội được phân chia một cách hợp, không thiên tính 4. ): Enzyklopädie Philosophie und Wissenschaftstheorie. , 2011, Rn. 2 Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. Những quyết định hành chính hay phán quyết của Tòa án vi phạm nguyên tắc đồng đẳng phải bị hủy bỏ. 347. Trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) có ghi nhận là: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và đồng đẳng về phẩm giá và quyền lợi.

Điều này cũng phản chiếu một qui luật thế tất: sự hợp nhất và chống chọi của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. 3 Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, công bằng dần được nhìn nhận trong một phạm vi rộng lớn hơn, không chỉ được hiểu là công bằng trong phạm vi quốc gia, mà hơn thế, công bằng còn được hiểu ở khuôn khổ quốc tế.

Việc thực thi hiệu quả các vấn đềnhư công bằng trong việc tiếp cận các cơ hội, công bằng trong việc gánh vác nghĩa vụ chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các thế hệ sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển bền vững về nhiều phương diện ở khuôn khổ toàn cầu. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đều đề cao giá trị bình đẳng, công bằng, mục đích là chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự dị biệt về nguồn cội xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, khuynh hướng tình dục, tiếng nói, đạo, thế giới quan chính trị, cỗi nguồn xuất thân, tài sản hay các điều kiện khác.

Band 1. Chả hạn: Cái thiện luôn thắng cái ác, Cô Tấm hiền thảo, chịu thương chịu khó hay Thạch Sanh nghĩa hiệp chung cuộc được hưởng vinh hoa phú quí, còn mẹ con Cám độc ác hay Lý Thông gian ác, giảo hoạt chung cuộc phải bị trừng trị. Tóm lại, công bằng có thể hiểu một cách đại quát nhất là trạng thái lý tưởng của tầng lớp loài người, trong đó vấn đề tài sản, lợi. Theo nghĩa chủ quan, công bằng phụ thuộc vào sự cảm nhận, đánh giá, phán xét của mỗi cá nhân 3.

Hoạt động hành pháp và tư pháp cũng phải dựa trên cơ sở luật pháp và đảm bảo sự vô tư lự (fairness), song song phù hợp với thuộc tính, mức độ của từng quan hệ pháp lý cụ thể. Không ở đâu pháp luật qui định “mọi người đều đồng đẳng”,vì điều đó chẳng thể có, nhưng gần như pháp luật của quốc gia nào cũng qui định “mọi người đều đồng đẳng trước pháp luật”.

Công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc    Trong kinh tế học, người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang (horizontal justice) tức thị đối như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo tức là đối xử khác nhau với những người có những dị biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau.

Chẳng hạn chính sách cộng thêm điểm thi đại học theo vùng bây chừ, chính sách tương trợ cho những người tật nguyền, người già cô đơn không nơi lời tựa ở Việt Nam hiện giờ ngoài ý nghĩa là những chính sách xã hội, đó còn là bộc lộ của sự công bằng (công bằng theo chiều dọc).

4 Xem: Oswald Schwemmer, Gerechtigkeit, in: Jürgen Mittelstraß (Hrsg.

Chủ toạ Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Công bằng theo nghĩa khách quan và công bằng theo nghĩa chủ quan    Công bằng cũng có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau là nghĩa khách quan (objective justice) hoặc nghĩa chủ quan (subjective justice) 1.

Theo nghĩa khách quan, công bằng được hiểu là những giá trị đúng đắn, những qui tắc, chuẩn chung hoặc cách thức hành động hợp, được cộng đồng dấn 2. Bình đẳng trước pháp luật là điều kiện cơ bản để đạt đến sự công bằng 6. Mỗi người sẽ có những đánh giá riêng của mình thế nà công bằng hay không công bằng. Đồng đẳng và công bằng dưới góc độ pháp lý    Dưới góc độ pháp lý, đồng đẳng và công bằng là hai khái niệm khác nhau.

Org/external/default/main?pagePK=64165259&theSitePK=478060&piPK=64165421&menuPK=64166093&entityID=000112742_20050920110826).

Lập pháp có nhiệm vụ phải tối ưu hóa mọi lợi ích của mọi thành phần tầng lớp (welfare maximization). Việc thực thi hiệu quả các vấn đề như công bằng trong việc tiếp cận các nhịp, công bằng trong việc phụ trách nghĩa vụ chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các đời sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển vững bền về nhiều mặt ở khuôn khổ toàn cầu.

” Công bằng hiện tại không chỉ là thiên hướng chung trong thế giới hiện đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá chừng độ phát triển bền vững của một từng lớp. -------------- 1 Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit juristischer Methodenlehre, 6. Đồng đẳng chỉ là yếu tố cơ bản hợp thành sự công bằng.

Mặc dầu có nhiều cách quan niệm cũng như lý thuyết về sự công bằng, tuy nhiên những lý thuyết này vẫn chưa đủ để tạo ra một cách hiểu hợp nhất về sự công bằng, bởi lẽ mỗi một nền văn hóa, ngồi không gian và thời gian khác nhau, lại xuất hiện những cách hiểu, cách đánh giá khác nhau về sự công bằng. Công bằng còn được hiểu là sự lớp một môi trường mà trong đó các nhịp là ngang bằng nhau.

Chả hạn, trong một tầng lớp đa dạng, đa chiều, sự cạnh tranh giữa các ý tưởng sẽ tạo điều kiện cho các sáng kiến của cá nhân phát triển. 746 5 Theo báo cáo của nhà băng thế giới (World Development Report 2006 – Equity and Development) ở những nước nào mà các nguyên tố về công bằng, đặc biệt là công bằng về mặt nhịp (equality of opportunity) được quan hoài, bảo vệ thì ở những nước đó có sự tăng trưởng tốt về kinh tế.

348. Aufl.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét