Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Phong danh hiệu Tham khảo là trả nghĩa cho nghệ nhân

Nghệ nhân Điểu K’Lung - người có công gìn giữ và truyền dạy cả kho tàng sử thi Tây Nguyên - sống trong cảnh ngộ thế này đây.Ảnh: Đ.B.T

- Hội chứng “làm” thương hiệu cho di sản càng ngày càng nhiều: Từ chỗ tụ tập hàng ngàn người hát quan họ, đến chỗ đề nghị có dàn nhạc cho hát xoan; rồi sàn diễn hóa không gian văn hóa cồng chiêng... Từ chỗ không giữ gìn những tinh hoa di sản gốc, người ta sẽ ít quý trọng nghệ quần chúng gian hơn. Chứng cớ là trong bản dự thảo nghị định ấy, người ta đã áp những tiêu chuẩn rất không thực tại.

Ví dụ, phần nhiều nghệ quần chúng. # Gian đều lớn tuổi, ở những vùng xa xăm, heo hút, thế mà bắt người ta phải có tài liệu chứng minh đã hành nghề từ 15 - 25 năm, kèm theo những hình ảnh hoặc video trình diễn; rồi thì chỉ truy tặng danh hiệu cho những người đã mất cách thời kì xét tặng là 5 năm... Và cứ cái đà này thì có nhẽ cố nghệ nhân Hà Thị Cầu cũng “rớt” ra ngoài “barem” - cho dù việc truy tặng danh hiệu đối với bà cũng chả quan yếu nữa.

Nhưng dù sao cũng phải xét theo một tiêu chí nào đó, chứ không thể cả một hội đồng ngồi xét theo cảm tính được, thưa ông?

- Nghệ nhân khác với các nghệ sĩ là không học ở trường lớp nào cả, mà phần nhiều là được truyền dạy, vậy thì lấy gì làm bằng cớ là người ta hành nghề từ khi nào? Hội Văn nghệ Dân gian VN và nhiều người khác cho rằng, nên dựa vào danh sách các nghệ nhân đã được hội hủi mà xét ở cấp nhà nước, nhưng họ không nghe. Sao tôi lại đề xuất thế ư? Vì trong 12 năm qua, hội đã cùi danh hiệu nghệ nhân cho 372 vị trên khắp cả nước mà có kiện tụng gì đâu. Ai mà chả biết bà Hà Thị Cầu giỏi nhất “món” hát xẩm; gia đình họ Điểu (Điểu K’lưt, Điểu Kâu, Điểu K’Lung ở Tây Nguyên) là kho sử thi... Vậy thì còn trù trừ gì nữa...?

Thực ra, nhiều người - trong đó có tôi - nhờ những nghệ nhân này mà trở nên cử nhân, tiến sĩ. Bởi làm sao tôi biết được hết cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của các loại hình văn nghệ dân gian, thậm chí không có được cả một bài sử thi hoàn thiện để mà nghiên cứu, phải không có sự chỉ bảo của họ. Nên, phải coi việc trao tặng danh hiệu cho các nghệ nhân là một việc làm cấp thiết để trả ơn với những người thầy của mình mới phải.

Ông đánh giá thế nào về việc thực hành Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở VN trong 10 năm qua?

- Chúng tôi rất hàm ơn UNESCO, vì chỉ từ khi những di sản văn hóa phi vật thể của ta được vinh danh, cộng đồng chợt bừng tỉnh về những vốn văn hóa vô giá của mình. Và cũng chính bởi “Xét đến tầm quan yếu của di sản văn hóa phi vật thể như là động lực chính của đa dạng văn hóa và là một bảo đảm cho sự phát triển bền vững” nên các thành viên của UNESCO, trong đó có VN đã cùng thỏa thuận công ước này.

Tuy nhiên, giờ, những điều trong công ước có một phần chương trình hành động còn mới quá. Hai là các di sản phải đối diện với một sự thay đổi không có gì kìm hãm được. Môi trường diễn xướng của hầu hết các di sản văn hóa phi vật thể không còn nữa. Tuy nhiên, Hội Văn nghệ Dân gian VN cũng đã khôi phục được môi trường diễn xướng cho chèo Tàu, múa bài bông, hát cửa đình... Ở khu vực Hà Tây (cũ). Chúng ta chưa xác định được mối tương quan chặt giữa di sản văn hóa phi vật thể với di sản văn hóa vật thể và di sản tự nhiên để từ đó có những chương trình hành động thống nhất..


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét